Hát chèo đã là một hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam từ bao đời nay. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian của dân tộc, Chèo là một loại hình sân khấu tuồng. Kết hợp với các lễ hội dân gian và các hoạt động giao lưu văn hóa trên sông Hồng. Đồng bằng châu thổ. Chèo là một trong những loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam. Và đặc biệt phát triển mạnh ở miền Bắc, cụ thể là vùng đồng bằng sông Hồng. Sau đó mở rộng ra vùng Bắc Trung Bộ và trung du miền núi phía Bắc. Dựa trên những câu chuyện ngụ ngôn với cách diễn đạt trực tiếp và đa dạng. Chèo được coi là một loại phông nền lễ hội đặc biệt.
Mục Lục
Chiếc nôi của văn hóa hát chèo
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng châu thổ phù sa cổ có bề dày lịch sử hình thành cư dân lúa nước từ 4000 đến 3000 năm, tương ứng với các thời đại vua Hùng. Nơi đây sớm hình thành các tiểu vùng văn hóa như đất tổ, kinh Bắc, Thăng Long, xứ Đông, xứ Đoài, Thượng châu thổ, Trung châu thổ, Hạ châu thổ… rất đặc trưng, độc đáo và giàu bản sắc bản địa.
Nơi đây không chỉ có bồi đắp tích tụ phù sa mà còn diễn ra mạnh mẽ sự bồi đắp, trầm lắng và tích lũy những kho tàng khổng lồ về ca dao, tục ngữ, thành ngữ, lộng ngữ, ngoa ngữ, câu đố, ví đối, nghi lễ, diễn xướng, dân nhạc, dân vũ. Trên nền tảng ấy, các làn điệu chèo và sân khấu chèo được hình thành, được nuôi dưỡng, được phát triển trở thành một trong những di sản vô giá của Đồng bằng Bắc Bộ.
Từ những câu ca dao, đồng dao, hò vè đơn lẻ tấu lên trong lao động sản xuất và sinh hoạt gia đình, làng xã dần trở thành làn, thành điệu, trở thành gánh hát, chiếu chèo, phường chèo. Hát chèo đi vào từng nhà, đi vào hội làng và mọi sinh hoạt xã hội như cưới xin, ma chay, khao vọng, đình đám… thu hút hấp dẫn cả người hát, người nghe, người xem đều say như điếu đổ.
Nghề thuật hát chèo
Chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp. Chèo tổng hòa các yếu tố dân ca, dân vũ, dân nhạc, diễn xướng, tuồng tích trở thành đặc sản văn hóa đặc trưng ở Bắc Bộ. Xuất phát từ âm hưởng của giai điệu dân ca dần dần hình thành các tố chất buồn, vui, trong sáng, trầm tư, dí dỏm, trào lộng từng câu hát, trong từng hoàn cảnh cụ thể. Trong sự phát triển thăng hoa của lối nói, lời thơ, trò diễn dân giã đã xướng lên, ngân nga thành làn, thành điệu.
Những biến pháp gây cười
Trong chèo, làn là hơi thở của nhạc điệu. Làn là theo khổ thơ lời hát mà ngân lên. Nhiều lời câu hát sẽ dài, ít lời câu hát ngắn lại. Làn còn được biến tấu để diễn đạt cảm xúc, tình huống cụ thể của tích, trò. Làn chính là sản phẩm của ứng tác âm thanh, ứng diễn tự do theo phương thức dân giã, dân gian. Làn chính là môi trường âm nhạc của câu hát, là âm nhạc hóa thơ ca. Được nảy nở từ nhịp trống phách và nét dạo của các nhạc cụ trong chèo.
Đi liền với làn là điệu. Điệu lấy chất liệu, hơi hướng từ làn nhưng được cấu trúc chặt chẽ. Định hình nghiêm chỉnh cùng kỹ thuật thể hiện lời hát. Cũng như thanh điệu ở mức độ cao hơn, ổn định hơn. Điệu được dùng cho đơn ca, đối ca, đồng ca, tốp hát. Nhằm miêu tả tâm trạng, tính cách nhân vật và bối cảnh. Điệu không được chênh khỏi làn và phải bảo đảm bảo đúng đặc trưng hát chèo. Ở điệu, vai trò âm nhạc được coi trọng. Được phát huy, tạo hiệu ứng lan tỏa của câu hát, lời hát.
Phong cách đa dạng, đặc sắc
Âm nhạc đóng vai trò dẫn dắt, nâng tầm, chắp cánh cho câu hát chèo. Nhạc cụ trong chèo bộ gõ có trống bản, trống nhỏ, trống cơm, trống đế, mõ, thanh la. Bộ giây có nhị, đàn nguyệt, đàn tam, hồ. Bộ hơi có sáo trúc. Với người xem, họ sở hữu trống chầu hỗ trợ tiếp lửa cho đêm hát, hội diễn.
Trong chèo có cách diễn tả bằng nghệ thuật múa. Múa chèo đặc sắc ở đôi bàn tay kết hợp chuyển động toàn thân nhẹ; nhàng uyển chuyển theo tiết tấu câu hát theo nhịp điệu cung bậc của cảm xúc. Chiếc quạt là đạo cụ ưu thế để người hát. Người diễn hòa nhập với động tác múa. Múa trong chèo mang tính ước lệ những động tác trong lao động và cuộc sống.
Di sản vô giá của văn hóa Việt
Hề chèo là nhân vật ước lệ rất phổ biến ở các trò diễn tạo ấn tượng, hoạt náo cho không khí cuộc hát, đêm hát. Với nghệ thuật trào lộng dân gian và sử dụng lối ngọa ngữ sắc sảo hề chèo để lại tiếng cười hỉ xả nơi thôn giã.
Hát chèo có cả trăm làn điệu nằm trong các loại hình: sắp, sử, hề, văn, đường trường, sa lệch, xẩm xoan, luyện năm cung, cách cú, lới lơ, làn thảm, đào liễu, gà rừng… Thế kỷ trước các bậc tiền bối làng chèo còn đưa thêm vào các làn điệu vốn ra đời ở bên ngoài đồng bằng Bắc Bộ. Ví dụ như: bồng mạc, sa mạc, hát ví, trống quân, cò lả, hành vân… Nhờ đó làm phong phú thêm nghệ thuật chèo. Hát chèo in đậm nét trong tiềm thức dân gian người Việt. Không chỉ riêng với đồng bằng Bắc Bộ mà còn tỏa rộng, vươn xa trong đời sống văn hóa – nghệ thuật đương đại của đất nước.
Những loại hình hát chèo
Xét về phương diện thời gian, thì chèo được chia làm hai loại:
Hát chèo truyền thống
Chèo truyền thống: là chèo cổ được kế thừa và phát triển trên nguyên tắc bảo tồn những nguyên tắc cơ bản trong phương pháp nghệ thuật của chèo cổ. Các vở diễn chèo truyền thống trước hết là các vở diễn theo các tích chèo cổ, được tiếp nhận qua quá trình truyền nghề của các nghệ nhân, được chỉnh lý, nâng cao qua diễn xuất của các nghệ sĩ đương đại. Chèo cũng có thể coi là một loại nhạc Acoustic được, vì cơ bản nó sử dụng toàn những nhạc cũ không dùng điện.
Hát chèo hiện đại
Chèo hiện đại: “là các vở chèo do các tác giả, đạo diễn, nghệ sĩ thời kỳ hiện đại đồng sáng tạo. Nhờ đó đã ra đời và tồn tại trong thời kỳ hiện đại phục vụ cho người xem đương thời. Như vậy, các vở chèo hiện đại bao gồm tất cả các tác phẩm có đề tài khai thác từ cổ tích, dân gian, dã sử, lịch sử và đề tài hiện đại”.
- List những món ăn đặc trưng trong ẩm thực Pháp khiến du khách say mê
- Thử ngay công thức nấu món ngỗng ngon chiêu đãi cả nhà
- Bà bầu uống cà phê hằng ngày có ảnh hưởng sức khỏe thai nhi?
- Những điểm dừng chân lý tưởng cho chuyến du lịch đến Vịnh Hạ Long
- Cách làm ra một chiếc khẩu trang đẹp, đơn giản để bảo vệ sức khỏe
Bài viết cùng chủ đề: